TỪ TƯ TRONG PHẬT GIÁO

TỪ TƯ TRONG PHẬT GIÁO

TỪ TƯ TRONG PHẬT GIÁO

Từ tư trong phật giáo có nghĩa là suy nghĩ, ngẫm nghĩ, suy gẫm, hay suy tư về đối tượng. Đối tượng có thể rõ ràng hay không rõ ràng vì điều đang suy tư đến hoặc thật hoặc ảo. Suy nghĩ để hành động gọi là tư. Nhìn trời chuyển mây đen kịt biết trời sắp mưa, việc biết này khiến ta ở nhà không đi ra ngoài hoặc mang theo áo mưa. Ý thức trời sắp mưa trên cơ sở mây đen là kinh nghiệm trước đó và việc suy nghĩ nên ở nhà hay đi ra ngoài rồi dẫn đến hành động ở nhà hay mang theo áo mưa ra ngoài là tư. Tư mang nét đặc trưng của hành động hay tạo tác là kết quả của suy nghĩ. Suy nghĩ có chánh iệm dẫn đến hành động có chánh niệm nên muốn hành động không gây nghiệp hãy điều phục suy nghĩ. Suy nghĩ theo hướng thiện làm nên hành động thiện và suy nghĩ theo hướng bất thiện làm nên hành động bất thiện. Hoàn cảnh cũng tát động đến điều kiện hành động cho dù suy nghĩ khác đi với hành động. Đứa trẻ làm việc thiện và bị bạn bè trêu chọc nên sau này có suy nghĩ làm thiện nhưng làm lén lút hoặc không làm nữa. Để các pháp trôi chảy một cách tự nhiên và niệm hiện tại để hiện tượng bị trêu chọc trở thành quá khứ. Chính quá khứ này khiến ta nhận biết hiện tại có thể bị trêu chọc nếu tiếp tục làm thiện trở lại, đây là tưởng. Chấp thủ vào tưởng làm ta rơi vào tà kiến và không muốn làm việc thiện nữa vì bản thân đánh đồng làm việc thiện với bị trêu chọc. Buông bỏ chấp thủ để thấy việc trêu chọc chỉ là hiện tượng của vạn pháp và làm việc thiện được suy nghĩ đúng đắn. Tư tạo ra thức nhưng cũng được tạo ra bởi vô minh. Các yếu tố của mười hai duyên khởi đều có quan hệ tương tức với nhau vì yếu tố này dẫn đến yếu tố kia và các yếu tố mới đều bao hàm tất cả các yếu tố trước đó, nên nói vô minh sinh ra tất cả cũng không sai. Tư có khả năng tạo nghiệp và ta có hành động, lời nói, suy nghĩ chịu tác động bởi tư. Nghiệp có thể tốt, xấu hoặc không tốt không xấu. Nghiệp tốt chắc chắn tạo quả tốt, nghiệp xấu chắc chắn tạo quả xấu và nghiệp không tốt không xấu chắc chắn tạo quả không tốt không xấu. Nghiệp có thể tác động trở lại tư khiến ta tiếp tục nghiệp xấu hay tạo nghiệp tốt. Thức, thọ và tưởng là các nhân tạo nên tư. Tâm, cảm giác và nhận biết kết hợp nhau thúc đẩy tư phát sinh rồi quyết định hành động được đưa ra. Suy nghĩ tường tận để loại bỏ các bất thiện và lựa chọn hạt giống thiện, từ đó có hành động thiện. Tuy nhiên có người hành động bất thiện theo thói quen, không phân biệt được cái gì thiện và bất thiện, nên họ xa đà vào điều bất thiện, nhưng điều đáng sợ là họ cứ cho như vậy là thiện. Tư trong trường hợp này là tổng hợp nghiệp xấu đang tự tung tự tác không cho người này đủ thời gian hay trí tuệ để suy nghĩ nữa. Tư tích luỹ các nghiệp đưa đến quả tái sanh trong các cảnh giới tuỳ thuộc loại nghiệp. Tích luỹ nhiều nghiệp tốt sẽ sanh về cõi trên và nghiệp xấu sẽ sanh về cõi dưới. Người đã giác ngộ không còn tạo nghiệp, kể cả nghiệp tốt hay xấu nên không sanh về cõi trên hay cõi dưới nữa. Tuy vẫn phải trả nghiệp, cả nghiệp tốt và nghiệp xấu. Cảnh niết bàn đối với người giác ngộ được tiếp xúc ngay khi người đó chứng đạo nên việc trả nghiệp tốt hay xấu không thành vấn đề với họ, tức là không chìm đắm trong việc hưởng quả nghiệp tốt và không đau khổ khi trả quả nghiệp xấu. Niết bàn hiện tiền lúc nhận biết về tư và làm cho nó vắng lặng. Kết quả của tâm sở tư diễn ra ngay lập tức sau này mới phát khởi. Cái này gọi là nghiệp đồng sanh hay nghiệp cho quả dị thục. Giống như người làm một bộ phim đến khi công chiếu mới thu được tiền, nhưng kết quả thu tiền không chỉ chịu sự tác động của nhân làm bộ phim mà còn là sự đúc kết của nhiều hành động trong quá khứ nữa. Đức phật dạy về sự tưởng nhớ cao thượng, theo đó việc tưởng nhớ đến hạnh phúc sẽ giúp được an lạc trong hiện tại và tưởng nhớ đến đau khổ làm cho hiện tại thêm đau khổ. Một cặp vợ chồng ngồi nhắc lại những kỷ niệm đẹp trong quá khứ nên phút giây hiện tại của họ trở nên thắm thiết và dễ chịu. Sự tưởng nhớ này có tác động mạnh đến việc suy gẫm trong hiện tại và vì thế tư chịu ảnh hưởng. Người vui vẻ thích chấp nhận mọi thứ dù sự việc diễn ra đã từng làm con người đau, nhưng tâm trạng đang sầu khổ gặp phải chuyện khổ càng khổ thêm nữa và tư tưởng tuyệt vọng phát sinh. Nuôi dưỡng suy nghĩ tích cực, tâm trạng hân hoan hay thái độ cởi mở là các biện pháp chăm bón cho tinh thần lạc quan và tư được bảo hộ nhiều hơn. Không có ai tự nhiên mang đến sự lạc quan hay tiêu cực nếu các điều kiện nhân duyên chưa đầy đủ. Trời đang nóng không thể tự nhiên mát nếu trời không mây, không gió và không mưa. Những gì ta tiếp xúc đều do nhân quá khứ và hiện tại tạo nên. Đời sống con người giống như một quá trình tạo nghiệp, trả nghiệp và hưởng nghiệp. Nếu suy nghĩ đi về nẻo thiện, đời sống của ta nằm trên con đường thiện nhiều hơn. Không có ai đem đến hạnh phúc hay đau khổ cho mình, chỉ có mình xây dựng nên điều đó. Người đi giúp người khác chính là giúp mình và đi hại người khác là hại chính mình. Giống như nhìn vào chiếc gương, mình nhìn thấy hình ảnh của mình chứ không thể nhìn thấy hình ảnh của ai khác, hoặc ném bụi ngược chiều gió sẽ bị bụi bay vào mắt. Các đối tượng bên ngoài vốn rất yên tịnh nhưng tâm ta vẽ ra đủ thứ kiểu nhận xét rồi xây dựng bản thân nền văn hoá nhận xét nhiều hơn văn hoá tu tập, vì vậy đối tượng trở thành không còn yên tĩnh nữa nhưng thật chất chính mình làm cho mình trở nên không yên tịnh. Chánh niệm về tư giúp ta làm chủ được nghiệp. Nói không ai làm chủ được nghiệp là không đúng. Nếu muốn an tịnh phải suy nghĩ an tịnh và biết về sự an tịnh đó. Khi tâm di chuyển sang hướng bất tịnh, chánh niệm gọi tên cho được những điều bất tịnh, chuyển hoá nó thành ra an tịnh. Sự bất tịnh mang yếu tố của an tịnh và an tịnh cũng vậy mang các yếu tố của bất tịnh. Chánh niệm sẽ nhận diện điều an tịnh và nắm giữ nó, đồng thời bắt tay với bất tịnh để xoa dịu và thay đổi, không đối xử tàn bạo hay xua đuổi bất tịnh. Khi bất tịnh đến, hành vi bạo động sẽ làm cho bất tịnh gia tăng. Xây dựng hoà bình cho bản thân là không ép mình trong khuôn khổ của chối bỏ bất tịnh và chỉ mở cửa chào đón an tịnh. Hoà bình tự thân chấp nhận cả hai phía và biết được điều gì đáng phải làm hơn. Tâm sở tư được chánh niệm không làm ta ngắc ngoải trong suy nghĩ bất tịnh và có thể điều tiết được nghiệp hơn. Nghiệp phát sinh không phải chỉ có hành động mới tạo mà khi suy nghĩ về nó mà không nhận biết rồi bơi lội trong thứ suy nghĩ bất tịnh, nghiệp đã có thể phát sinh rồi. Thời gian suy nghĩ dài hay ngắn không quan trọng nhưng dính mắc vào suy nghĩ và bị nó lôi kéo đi mà không được biết thì ta đã rơi vào tà dục. Cần phân biệt giữa đem đối tượng tà dục ra nghiên cứu với suy nghĩ mang tính chất thoả mãn tà dục. Một người đọc báo về vụ án giết người và sau đó quán chiếu nguyên nhân vì sao tên sát nhân hành động như vậy để hiểu rõ hành vi gây án của người này. Sự suy nghĩ này không mang tính tà dục vì muốn hiểu người nên đặt mình vào vị trí của người đó. Còn người suy nghĩ về hành vi giết người, lên kế hoạch cho vụ án và dù chưa có làm gì hết nhưng tà dục đã và đang lôi kéo người này, nếu không thực tập chánh niệm sẽ bị tà dục đè bẹp. Tư của người này khác với người kia với cùng loại hành động nhưng nghiệp được tạo tác có thể khác nhau. Ví dụ hai người cùng có ý cúng dường tam bảo bằng tài vật nhưng người đầu suy nghĩ thanh tịnh còn người sau tính toán nhiều nên người đầu có nhiều hạnh phúc hơn người sau. Đọc những lời phật dạy tại đây.

TỪ TƯ TRONG PHẬT GIÁO {thơ}

Nuôi dưỡng tâm tích cực

Môi trường sống an lành

Giữ thái độ lạc quan

Luôn đi về nẻo thiện.

xem kênh youtube https://youtu.be/_oHlUU_88nI

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Contact Me on Zalo