Ý NGHĨA TỪ TƯỞNG
Tưởng là trạng thái nhớ lại, biết lại do nhận thức một đối tượng nào đó đã từng biết đến. Tưởng do các định chế mà con người đặt nên để có thể phân biệt giữa đối tượng này hay đối tượng khác. Chẳng hạn, danh từ màu xanh là tên gọi được đặt ra chỉ bản chất màu xanh của một vật và con người ấn định màu xanh phải như vậy. Nếu từ xa xưa người ta gọi bản chất xanh đó bằng một tên gọi khác thì bây giờ chắc chắn không có danh từ màu xanh. Tuỳ theo sự phất triển của thời đại mà các danh từ mới xuất hiện và được ấn định theo như thế, nên khi gọi tên nó lên ta mường tượng được đối tượng muốn nói, ví dụ ngày nay có danh từ internet và blog mà cách đây một trăm năm không hề có. Nhận thức về những gì đã từng biết bằng cách gọi tên chúng, nhưng cái tên là sử dụng phương tiện ngôn ngữ diễn tả điều đã biết nên có thể diễn tả đầy đủ hoặc không đầy đủ bản chất của đối tượng. Cũng vậy, nhận thức này có thể đúng hoặc không đúng, hời hợt hoặc sâu sắc và theo thời gian hoặc mức độ quan trọng, tưởng được biều hiện rõ nét hay nhạt nhoà. Khi còn là học sinh, ta học về một định luật vật lý hay phương trình toán học. Định luật này được nhận thức rõ khi còn là học sinh, nhưng 20 năm sau ta không thể nào nhận thức nữa và có thể không giải nổi bài toán trước đây mình từng giải rất giỏi. Tưởng dẫn dắt tâm đi đủ mọi thứ, dung chứa đú thứ nhận thức. Nhận thức chất chứa đó có thể đúng hay không đúng và có khi ta hoang mang không biết cái gì đúng cái gì sai, để rồi bơi lội trong biển nhận thức không đúng, cụm từ vọng tưởng điên đảo xuất hiện cũng vì vậy. Tưởng trở nên dồi dồi, phong phú nhờ vào việc tích luỹ các nhận thức được sử dụng để suy luận và diễn giải. Nhận thức lệch lạc đưa con người vào lối suy diễn mà cái gì suy diễn thì chẳng bao giờ đúng. Tưởng là sự nhận biết đơn thuần về đối tượng vì ta không thể nào đủ sức nắm bắt thật chi tiết về đối tượng. Nhìn máy vi tính biết đó là máy vi tính, ta không phải là chuyên gia vi tính nên không thể ngồi mô tả chi tiết từng linh kiện hay các thành phần cấu tạo nên chúng. Nhưng nhờ biết như vậy nên con người rèn luyện trí nhớ và trí nhớ chẳng qua là sự nhận thức về các đối tượng đã từng nhận biết. Ta mất hay giảm trí nhớ vì sự nhận biết các đối tượng đã từng biết ngày càng yếu kém do bệnh tật, sức khoẻ hay tuổi già. Nhận thức lệch lạc bao gồm cả dục tưởng. Dục tưởng là nhận thức về cái dục, sân tưởng là nhận thức về sân và hại tưởng là nhận thức về hại nhưng không biết dục , sân và hại là những thứ cần phải tránh mà nhận thức chúng để dấn thân vào chúng. Bên cạnh đó cũng có những tưởng đúng đắn khi thực tập có thể xa lìa được tà dục, nhất là tưởng bất tịnh, tưởng sinh diệt, tưởng biết ơn trong bữa ăn, tưởng tính không đáng tham cầu, tưởng vô thường, tưởng rong chơi giữa vô thường, tưởng vô ngã, tưởng tính không đáng dính mắc. Tất cả tưởng này đều được thực tập thong qua chánh niệm và thiền minh sát. Con người rơi vào tà kiến vì tưởng nhớ sai lạc và phát sinh trí tuệ nếu tưởng nhớ đúng đắn. Người thực hành mười hạnh lành, sống trong môi trường trong sạch, tiếp xúc với các bậc tri thức, gìn giữ giới luật miên mật sẽ có các cơ hội tiếp xúc với các đối tượng lành mạnh, vì vậy sự tưởng nhớ dễ dàng trong sạch hơn. Đối tượng của tượng là sáu cảnh đã từng biết tới bao gồm sắc tưởng, thinh tưởng, mùi tưởng, vị tưởng, xúc tưởng, pháp tưởng. Các đối tượng này không phải lúc nào cũng sạch sẽ nhưng người tu không bị dính mắc vào chúng cho dù sạch sẽ hay không sạch sẽ. Trạng thái nhớ lại không chỉ những điều đã biết trong quá khứ của kiếp hiện tại mà còn trong quá khứ xa xưa trong những kiếp xa xưa. Con người khi chưa giải thoát vẫn nằm trong vòng luân hồi và kiếp hiện tại là đời sống nối tiếp của những kiếp quá khứ mà thôi. Tuy nhiên tưởng chỉ làm nhiệm vụ nhận biết đơn thuần nhưng những cái đơn thuần kia có được cũng nhờ các kiếp quá khứ đã từng tiếp xúc và trải qua. Hiện tại làm công việc nhận diện điều đã từng biết và cũng nhận diện điều đang xảy ra. Đối tượng của tưởng có thể bị xoá nhoà, mơ hồ hay rõ nét tuỳ theo tần số xuất hiện của đối tượng. Ta tiếp xúc với rất nhiều đối tượng mỗi ngày và sau một năm số lượng có thể lên đến hằng hà sa số và thường nhớ đến những gì nổi bật hay gây ấn tượng. Giống như một người đi học xa nhà, thời gian đầu nổi nhớ nhà rất mạnh vì đối tượng gia đình tiếp xúc thường xuyên và sau đó thời gian đầu tư vào việc học lớn hơn, đối tượng học hành chiếm cứ nhiều hơn nên nỗi nhớ gia đình cũng giảm đi. Việc nhớ có thể làm ta xa rời hiện tại do phải suy tư và mắc kẹt vào quá khứ, tuy nhiên nếu tỉnh thức trong hiện tại mình đang tưởng nhớ về quá khứ thì việc tưởng kia không bị chìm đắm. Con người có quyền nghiên cứu quá khứ và tương lai nhưng cần đem chúng về hiện tại để chiêm nghiệm hơn là trôi theo chúng. Tà kiến phát khởi do đem sự nhớ về quá khứ và so sánh với hiện tại, cho nên ta tiếc nuối quá khứ, sau đó mường tượng đến tương lai rồi bắt đầu suy diễn. Nếu đem sự nhớ quá khứ để nhận biết hiện tại và ý thức hiện tại đáng sống hơn bao giờ hết nhưng không đồng nghĩa với trốn chạy quá khứ, sự nhớ này đáng làm hơn. Tưởng không làm nhiệm vụ đúng hay sai mà chỉ nhận diện đơn thuần như đã nói ở trên, vì thế tưởng không có tính chất phân biệt mà chỉ sử dụng tên gọi làm phận sự của mình. Nhưng tên gọi có thể sử dụng không đúng, ví dụ nghe bài hát quen thuộc biết là bài hát đó nhưng gọi tên bài hát có thể sai. https://daogiuadoithuong.com/
CHÁNH NIỆM VỀ TƯỞNG – (ý nghĩa từ tưởng)
Ý nghĩa từ tưởng chúng tôi đã giải thích còn bây giờ nói về chánh niệm về tưởng sẽ nắm giữ được cảnh hiện tại vì chánh niệm yêu cầu ta biết việc gì đang xảy ra bên trong và bên ngoài cơ thể. Có thể việc gọi tên đối tượng không đúng nhưng biết như vậy. Một cô giáo gặp lại học trò cũ của mình, biết đó là học trò cũ nhưng không thể nhớ nổi tên. Biết mình đang gặp học trò cũ là nhận diện đơn thuần, một việc làm của chánh niệm. Chánh niệm giúp tưởng nhìn thấy cảnh tái hiện theo một đối tượng đã từng biết. Tái hiện không phải là dựng cảnh lên y chang như quá khứ mà có nghĩa những gì biết trong hiện tại do nhân quá khứ mà ra. Tiếp xúc trong quá khứ là nhân, nhận biết trong hiện tại là quả và tiến trình nhớ lại kia là sợi dây liên kết nhân duyên giữa nhân và quả. Người từng gặp đau khổ trong quá khứ và tiếp xúc với đau khổ tương tự trong hiện tại nên biết cách giải quyết hơn, đồng thời không dính mắc vào nó nữa. Người gọi là có kinh nghiệm khi biết được nhiều đối tượng dù biết rõ hay không biết rõ. Hiện tại đang sống chứa đựng vô số yếu tố của quá khứ và nếu không mang vô số yếu tố đó, con người thành ra đãng trí hay mất trí. Mất trí đay không có nghĩa là điên dại mà không nhớ gì về quá khứ nữa. Họ phải nhận biết ngay đối tượng từ đầu nhưng không phải những gì trong quá khứ hoàn toàn mất đi mà nó chưa đủ điều kiện để nhớ lại. Người không nhớ chuyện cũ có cơ hội tiếp xúc liên tục hay nhiều lần cảnh cũ đến lúc nào đó sẽ nhớ lại. Niết bàn không phải là cái sáng chế ra mà là sự thật hiển nhiên và con người tưởng về những điều xa niết bàn nên ngày càng xa nết bàn. Nhận biết niết bàn làm cho việc tưởng về niết bàn nhiều hơn và gần gũi niết bàn. Chánh niệm về niết bàn đưa ta sống trong niết bàn ở giây phút hiện tại. Chánh niệm về tưởng để biết tưởng nhớ đến cái gì và giúp tưởng nghĩ đến điều cao thượng thôi.
xem thêm kênh youtube https://www.youtube.com/c/ĐạoGiữaĐờiThường